Đánh giá về khả năng canh tranh của sản phẩm cà phê của Việt Nam

Khả năng cạnh tranh cao của cà phê Việt Nam trong quá khứ chủ yếu dựa trên 4 yếu tố chính. Thứ nhất là giá lao động rẻ. Thứ hai là năng suất cao dựa trên sử dụng nhiều phân bón và nước tưới. Thứ ba là lợi thế về khoảng cách vận chuyển. Các vùng sản xuất chính cà phê Việt Nam đều gần các cảng xuất khẩu do Việt Nam có chiều ngang hẹp. Thứ tư là hệ thống chính sách của nhà nước đối với ngành cà phê thông thoáng, tạo môi trường bình đẳng cho tất cả các tác nhân tham gia sản xuất, chế biến và tiêu thụ cà phê. Chính vì 4 yếu tố này nên xuất khẩu cà phê Việt Nam đã nhanh chóng chiếm lĩnh được thị trường cà phê thế giới, gây sức ép cạnh tranh mạnh với các nước xuất khẩu cà phê khác trên thế giới, đặc biệt các nước Châu Phi. Khi thị trường cà phê thế giới rơi vào khủng hoảng từ năm 2000 đến 2002, ngành cà phê Việt Nam là một trong những ngành cà phê trên thế giới chịu ảnh hưởng mạnh nhất về tất cả các mặt như mức sống của hầu hết người trồng cà phê giảm, nhiều đại lý thu mua phá sản, các doanh nghiệp kinh doanh cà phê đối diện với lượng tiền nợ đọng ngân hàng lớn, nguy cơ phá sản cao và môi trường có dấu hiệu suy thoái. Do đó, đánh giá xác định khả năng cạnh tranh của cà phê Việt Nam là cần thiết. Các xu hướng gần dây trên thị trường cà phê thế giới cho thấy khả năng cạnh tranh cao của cà phê Việt Nam khó duy trì trong thời gian tới. Thứ nhất, xu hướng tiêu dùng sẽ tiếp cận với các sản phẩm chất lượng cao, sản phẩm hữu cơ và sản phẩm sạch. Thứ hai, các hệ thống kiểm tra giám sát quốc tế đối với nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm sẽ buộc người trồng cà phê Việt Nam giảm dần phân bón và qua đó năng suất sẽ có xu hướng giảm. Thứ ba, tăng trưởng cà phê Việt Nam trong quá khứ chủ yếu dựa trên mở rộng diện tích trồng, đặc biệt là phá rừng và khai thác nguồn nước ngầm không phải trả thuế. Hiện nay, nhiều nơi đã bắt đầu bắt gặp xu hướng môi trường suy thoái, cản trở tăng năng suất và giá thành bị đẩy lên cao

Về chất lượng cà phê.

Mặc dù cà phê xuất khẩu của Việt Nam có khối lượng lớn, trong đó chủ yếu là cà phê Robusta nhưng chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam chưa đồng đều, đặc biệt số lượng cà phê xuất khẩu bị thải loại còn chiếm tỷ lệ cao (hơn 80%) trong tổng số cà phê xuất khẩu bị thải loại của thế giới.

Cà phê xuất khẩu Việt Nam bị thải loại do nhiều yếu tố như: yếu tố về độ ẩm (12,5%), tạp chất (0,5-1%), hạt đen, vỡ … Nguyên nhân chính ảnh hưởng đến chất lượng cà phê nhân xuất khẩu là do kỹ thuật trồng trọt và công đoạn thu hoạch không đúng quy cách. Tình trạng thu hái đồng loạt cà phê xanh, cà phê non còn khá phổ biến ; cơ sở vật chất phục vụ sơ chế bảo quản cà phê còn thiếu thốn, lạc hậu; cơ chế giá thu mua cà phê tươi chưa khuyến khích người sản xuất quan tâm đến chất lượng, nhất là khâu thu hoạch, phơi sấy, phân loại. Ngoài ra, hiện nay hầu hết cà phê của Việt Nam chỉ dựa trên sự thỏa thuận giữ bên mua và bên bán; cách phân loại chất lượng cà phê theo tỷ lệ hạt đen, hạt vỡ là cách phân loại lạc hậu và đơn giản nhất mà các nước xuất khẩu cà phê trên thế giới không còn áp dụng. Chính cách làm này là lý do khiến các nhà nhập khẩu đánh giá thấp chất lượng của các lô hàng và làm giảm uy tín chất lượng của cà phê Việt Nam.

Chất lượng cà phê của Việt Nam sản xuất ra chất lượng không đồng đều do phần lớn lượng cà phê được sản xuất ở quy mô nhỏ; trên 80% số nông trại có diện tích dưới 2 ha, hộ lớn nhất cũng chỉ đạt 5 ha và hộ thấp nhất chỉ có 2-3 sào. Đây là nguyên nhân lớn làm cho tình trạng chất lượng cà phê không đồng đều, điều này làm cho giá xuất khẩu cà phê của nước ta thấp hơn 10% so với giá các sản phẩm cùng loại của các nước khác trên thế giới. Đây là một thiệt thòi lớn cho cho những nhà xuất khẩu cà phê của ta và cũng thiệt hại cho người nông dân trồng cà phê của Việt Nam.

Trong khoảng thời gian 5 năm lại đây ngành cà phê Việt nam đã có bước tiến vượt bậc trong sản xuất, trở thành nước đứng đầu thế giới về sản xuất cà phê vối. Cũng có người cho rằng Việt nam và Colombia giành giật vị trí thứ nhì thế giới, sau Brazil. Chúng tôi cho rằng sự xếp đặt ngôi thứ đó không có ý nghĩa vì Colombia là nước sản xuất cà phê arabica còn Việt nam là nước sản xuất cà phê Robusta. Chính vì lẽ đó mà tại Hội nghị Hội đồng cà phê quốc tế, đoàn đại biểu Việt nam đã đề nghị với ICO không nên lấy số lượng đầu tấn xuất khẩu làm căn cứ tính số tiền phải đóng góp cho ngân sách quản lý của ICO mà ta hay gọi là “niên liễm” vì giá cà phê chè và vối rất khác nhau. Để công bằng hơn phải tính trên cơ sở kim ngạch xuất khẩu cà phê, và như thế Colombia ở trên chúng ta và niên liễm họ phải đóng cao hơn ta rất nhiều, trong khi hiện nay chúng ta phải đóng góp nhiều hơn Colombia. Theo phân bổ của ICO, căn cứ vào lượng xuất khẩu thì niên vụ cà phê 2006/07 Việt nam phải đóng góp £154.330, Colombia đóng góp £125.235. Tuy chúng ta sản xuất chủ yếu là cà phê vối có giá trị thương phẩm thấp hơn cà phê chè nhưng chúng ta cũng có thể nói rằng chúng ta hoàn toàn có thể sản xuất ra cà phê vối chất lượng cao, được khách hàng ưa chuộng nếu chúng ta có sự quan tâm đến khâu chế biến và nhất là khâu quản lý chất lượng của nhà nước nhiều hơn nữa.

Đây là một vấn đề rất đáng quan tâm vì nó quan hệ chặt chẽ đến khả năng cạnh tranh của mặt hàng cà phê Việt nam.

Trước hết, chúng ta hoàn toàn có thể yên tâm vì bản thân hạt cà phê Robusta sản xuất ở nước ta có chất lượng khá cao và đứng trong hàng cà phê vối tốt trên thế giới. Nguyên nhân dễ nhận thấy nhất là cây cà phê vối có nguồn gốc phát sinh ở những vùng nóng, ẩm của bồn địa châu Phi, nay lại được trồng trên cao nguyên, trong điều kiện khí hậu nhiệt đới cao nguyên, biên độ nhiệt độ ngày đêm lớn, tạo điều kiện cho cà phê vối ở đây có sản phẩm chất lượng cao. Tuy nhiên, khâu trồng trọt thu hái, chế biến và cả bảo quản vận chuyển nữa có thể làm cái chất lượng thơm ngon đó giảm đi.

Về giá cà phê.

Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam được đánh giá có ưu thế cạnh tranh về giá so với các mặt hàng tương tự của các nước xuất khẩu khác, do được thiên nhiên ưu đãi điều kiện sản xuất thuật lợi cùng vớ lợi thế giá nhân công rẻ. Tuy vậy nhưng do thói quen cùng với công nghệ sản xuất lạc hậu, manh mún, người dân làm không theo một quy trình kỹ thuật nhất định, điều này dẫn tơi giá trị xuất khẩu của các nông sản của Việt Nam nói chung và của cà phê xuất khẩu nói riêng thấp. Đây là nguyên nhân làm cho giá xuất khẩu của ta thấp, và thường bị ép giá. Nếu thực hiện tốt quy trình kỹ thuật trong việc trồng cây, chăm sóc cũng như công tác thu hoạch, sơ chế, chế biến sau thu hoạch, nâng cao chất lựợng cà phê thì cạnh tranh về giá của ta là công cụ rất rốt trên thị trường cà phê xuất khẩu thế giới.

Về chủng loại cà phê.

Nước ta sản xuất và xuất khẩu hai loại cà phê chủ yếu là là cà phê Robusta và cà phê Arabica. Cà phê Robusta chiếm hơn 65% diện tích (90% sản lựợng). Về chất lượng và hương vị thì cà phê Robusta không thể so sánh được với cà phê Arabica. Tuy nhiên giống này vốn được trồng nhiều ở Châu Phi, vùng có khí hậu nóng ẩm, chất lượng không cao, khi được trồng ở vùng cao nguyên của nước ta đã làm cho chúng có được hương vị đặc biệt, chất lựơng thơm ngon hơn, nó hoàn toàn có thể canh tranh được với cà phê Arabica của các nước xuất khẩu khác trên thế giới.

Xuất khâu cà phê chiếm 13% tổng giá trị xuất khẩu nông sản Việt Nam, trở thành nước xuất khẩu cà phê vối lớn nhất thế gíới, chiếm 43% thị phần cà phê vối thế giới.

Các yếu tố khác.

Ngoài các yếu tố kể trên thì còn có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của cà phê xuất khẩu của Việt Nam như chi phí vận chuyển, chi phí giao dịch, tỷ giá hối đoái…

Về chi phí vận chuyện Việt Nam có lợi thế do vùng trồng cà phê gần với khu vực chễ biến do Việt Nam có chiều ngang hẹp, điều này làm giảm đáng kể vào chi phí sản xuất của sản phẩm. Việt Nam nằm ở vị trí thuận lợi cho cả giao thông đường thuỷ lẫn đường hàng không nên việc vận chuyển hàng hoá nói chung và và vận chuyển cà phê xuất khẩu đi các nước khác cũng có nhiều thuận lợi. Hàng hoá của ta xuất khẩu chủ yếu được vận chuyển bằng đường biển mà ta lại có bờ biển dài với nhiều cảnh nước sâu cho tàu thuyền lớn lưu thông được. Khi vận chuyển hàng xuất khẩu ta không phải đi qua nhiều lãnh hải của các nước khác, điều này có thuận lợi rất lớn.

Về chi phí giao dịch của ta hiện nay hãy còn cao và có thể giảm xuống để góp phần vào việc hạ giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của cà phên xuất khẩu.

Về tỷ giá hối đoái của Việt Nam mấy năm gần đây tăng lên cũng làm cho hoạt động xuất khẩu có được nhiều thuật lợi. Tỷ giá của đồng Việt Nam luôn ở mức cao so với đông đô la Mỹ (một đô la Mỹ đổi được hơn 16000 đồng tiền Việt Nam).

 

Share This
COMMENTS
Comments are closed