Tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam những năm đầu hội nhập

 

Kim ngạch xuất khẩu cà phê ViệtNam (2003-2007)

STT

Năm

KNXK

1

2003

500

2

2004

590

3

2005

725

4

2006

950

5

2007

1878

ĐVT : Triệu USD

 

Bảng số liệu trên đã khái quát tình hình xuất khẩu cà phê của Việt nam trong những năm đầu hội nhập kinh tế quốc tế.Có thể nói xuất khẩu cà phê của ta đã trải qua những bước thăng trầm với những khó khăn đến đỉnh điểm và rồi ngoạn mục tăng vọt với những con số đến bất ngờ.Chỉ nhìn qua những con số có lẽ chúng ta cũng chưa hiểu rõ được tình hình xuất khẩu cà phê của Việt nam những năm đầu hội nhập.Nhưng khi kết hợp với sự phân tích của báo giới của các chuyên gia kinh tế…tình hình sẽ được nhận định một cách rõ rang hơn.

Trước hết ta nhìn về năm 2003,có thể nói là năm tiêu biểu chứng kiến những bước đầu trở lại sau nhiều năm thua nỗ nặng . Năm 2003,với lượng XK cà phê đạt 749.200 tấn với kim ngạch trên 500 triệu USD, nhưng sự phục hồi của ngành cà phê chưa thật sự vững chắc, hiệu quả kinh doanh vẫn thấp và tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Đó là: Chất lượng cà phê VN vẫn bị đánh giá thấp trên thị trường thế giới, chất lượng XK không ổn định, chưa xuất theo tiêu chuẩn XK dẫn đến bị ép cấp, ép giá, làm giảm giá trị XK; Khâu tổ chức thu mua trong nước chưa tốt, dẫn đến đầu vụ người trồng phải bán vội cà phê với giá thấp. Hệ thống đại lý thu mua cà phê hình thành tự phát, chủ yếu là các đại lý tư nhân, hệ quả là khi giá thị trường biến động mạnh dẫn đến đổ vỡ theo dây chuyền từ đại lý tới các nhà XK; Nhiều Cty kinh doanh XK cà phê thiên về ký kết hợp đồng theo phương thức giao hàng trước, chốt giá sau (thực chất là đầu cơ giá lên), nhiều trường hợp dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh. Các DN kinh doanh XK của ta cũng đang gặp phải sự cạnh tranh từ các DN có vốn đầu tư nước ngoài vốn có tiềm lực tài chính mạnh, am hiểu thị trường, đang tham gia thu mua XK cà phê (hiện các DN FDI chiếm khoảng 10% số lượng XK); Với hiệu quả kinh doanh thấp như trên, tình hình tài chính của ngành cà phê nói chung là rất xấu. Thời điểm chấm dứt khoanh nợ của các ngân hàng đối với ngành cà phê theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ đã đến gần (1/8/2004) mà nhiều DN vẫn chưa có phương án trả nợ để được vay tiếp. Đây là những đánh giá của Bộ thương mại về tình hình xuất khẩu cà phê năm 2003

Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu nông lâm sản của Việt Nam đạt 4,3 tỷ USD, trong đó, cà phê đóng góp 590 triệu USD. giá cà phê Robusta xuất khẩu của Việt Nam tháng 12/2004 tăng lên 704USD/tấn; lượng cà phê Việt Nam xuất khẩu năm 2004 đạt khoảng 900.000 tấn và giá xuất khẩu bình quân là 656,35 USD/tấn.Thực tế đã cho thấy rằng: Mặc cho những khó khăn vẫn tồn tại , đã được cảnh báo từ năm 2003 của các chuyên gia,kim ngạch xuất khẩu cà phê của ta trong năm 2004 đang đà tăng trưởng.Có thể nói đây là một dấu hiệu tốt?có sớm quá không khi chúng ta nhận định như vậy khi trên thực tế có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới tình hình xuất khẩu của mặt hàng này. Cà phê được đánh giá là mặt hàng có giá biến động nhanh và mạnh nhất trong 1 thập kỷ trở lại đây. Chưa kể ở nước ta, sản lượng cà phê các năm cũng rất không ổn định. Người trồng cà phê luôn sống trong tâm trạng nơm nớp về nỗi lo được mùa, mất mùa. Vì hạn hán dẫn đến sản lượng thấp, nhưng chưa chắc nông dân đã thua thiệt, bởi giá tự khắc sẽ được nâng lên. Ngược lại, được mùa, sản lượng tăng, nhưng nông dân chưa chắc đã thắng, bởi giá thị trường có thể sẽ bị giảm xuống. Đó chính là sự nhạy cảm và khó đoán biết của thị trường cà phê. Không chỉ với người nông dân mà ngay với các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê của nước ta, sụt giá bất ngờ vẫn là nỗi khiếp đảm luôn tồn tại. Điều đặc biệt là giá cả cà phê của Việt Nam trên thị trường thế giới lại phụ thuộc phần lớn vào sản lượng cà phê Brazil. Từ con số thực tế cùng những nhận định dự báo cho tương lai ta có quyền mong đợi cho tương lai phát triển bền vững của ngành xuất khẩu cà phê những năm tới

Theo các số liệu của Tổng cục Thống kê ở Hà Nội, năm 2005 Việt Nam xuất khẩu 885 ngàn tấn cà phê, thu về 725 triệu đô la.Con số trên thể hiện sự tăng lên đáng kể của xuất khẩu cà phê so với năm 2004, tăng trên135 triệu đô la,một con số không nhỏ so với tình hình kinh tế của chúng ta hiện nay.Thực tế năm 2005 đã khác với dự báo ban đầu của các chuyên gia kinh tế, đó là vụ thu hoạch cà phê của năm 2005 sẽ thấp hơn nhiều so với niên vụ 2003-2004 và lượng xuất khẩu năm 2005 chỉ đạt 800 ngàn tấn.Số liệu trong bảng cho thấy sản lượng xuất khẩu đã vượt 85 ngàn tấn so với dự kiến ban đầu

Xuất khẩu cà phê Việt Nam niên vụ 2005/06 đạt những bước tiến vượt bậc trên nhiều mặt. Kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ đô làm tăng đóng góp của ngành cà phê vào nền kinh tế chung của đất nước, giúp tăng vị thế của cà phê trong các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ đạo. Thị trường xuất khẩu tăng ổn định và từng bước mở rộng, chứng tỏ uy tín cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới. Chất lượng cà phê vối được cải thiện, cà phê chè (arabica) tuy chưa nhiều nhưng đã thể hiện rõ ưu thế về chất lượng. Mặc dù sản lượng vụ cà phê 2005/06 giảm do ảnh hưởng của hạn hán đầu vụ, nhưng nhờ cà phê xuất khẩu tăng giá nên thu nhập từ sản xuất xuất khẩu toàn ngành cà phê Việt Nam được cải thiện đáng kể. Chỉ tính riêng năm 2006 xuất khẩu 808.375 tấn, đạt kim ngạch 956.903.769 USD với giá bình quân 1183,7 USD/tấn.Vụ 2005/06, cả nước xuất khẩu được 774.457 tấn, trị giá 826.994.798 USD với giá bình quân 1066,5 USD/tấn.

Sau một thời gian giá cà phê thế giới rớt giá do tác động của khủng hoảng cung cấp thừa cà phê trên toàn cầu, giá cà phê thế giới niên vụ 2006/06 tăng trở lại. Giá cà phê Việt Nam xuất khẩu luôn bám sát giá thị trường thế giới, và thường chỉ thấp hơn giá chỉ thị của Tổ chức cà phê quốc tế (ICO) khoảng 25%. Trong quý II năm 2006, giá cà phê xuất khẩu tăng mạnh, chỉ thấp hơn giá chỉ thị của ICO khoảng 15%. Đó là thời kỳ giáp hạt của Braxin, Indonesia, chứng tỏ dự trữ của các nhà rang xay trong vụ này khá thấp. Vào quý III, giá lại tăng chậm, đến quý IV giá tăng trở lại. Trong năm 2006, giá trị đồng đô la Mỹ giảm 11,25% so với đồng Euro và 13,8% so với đồng bảng Anh. Điều này cũng là một trong các nguyên nhân ảnh hưởng đến việc tăng giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam.

Chủng loại và thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam

Trong niên vụ 2005/06, Việt Nam đã xuất khẩu cà phê nhân sang 71 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngoài cà phê nhân sống, Việt Nam còn xuất khẩu được 869,7 tấn cà phê hoà tan, trị giá 2.770.341 USD, bình quân 3.190USD/tấn sang 25 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó Nhật Bản: 232 tấn; Mỹ 192 tấn; Đài Loan: 141,5 tấn và Đức: 104,6 tấn.

Các loại cà phê xuất khẩu của Việt Nam niên vụ 2005/06

STT

Loại cà phê

Khối lượng (tấn)

Trị giá (USD)

1

Nhân sống

785,146,773

837,771,354

2

Hoà tan

869,705

2,770,341

3

Khác

8,890

92,996

Tổng

786,025,368

840,634,691

Thị trường nhập khẩu cà phê chính của Việt Nam ngày càng được mở rộng. Đặc biệt là một số nước sản xuất cà phê ở Châu Mỹ La tinh cũng mua cà phê Việt Nam như: Ecuador: 18.492 tấn, Mỹ: 87.932 tấn. Tiếp theo là Ý, Ba Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Anh, Bỉ và Pháp. Đó là 10 nước hàng đầu trong vụ cà phê 2005/06 (Biểu 1) Cà phê Arabica của nước ta chưa nhiều nhưng đã thể hiện rõ ưu thế về chất lượng. Chất lượng cà phê arabica khác nhau tuỳ theo điều kiện địa lý, dẫn đến chênh lệch giá. Ở Sơn La, do ở cao hơn cả về độ cao mặt biển (600m) và vĩ độ (220 vĩ độ bắc), cà phê Sơn La bán được giá cao hơn cà phê Hướng hoá Quảng trị, nơi thấp hơn cả về độ cao mặt biển (hơn 400m) và vĩ độ (khoảng 16050’), giá cà phê chè hai nơi chênh lệch tới 8,8%. Cà phê Arabica ở Việt Nam chưa nhiều nhưng cũng có thể bán được với giá cao hơn như cà phê Arabica ở Sơn La, công ty cà phê và cây ăn quả Sơn La xuất 307,2 tấn, thu 692.448 USD, giá bán bình quân 2250 USD/tấn. Công ty cổ phần nông sản Tân Lâm xuất khẩu 526 tấn cà phê Arabica, thu 1.097.161 USD, giá bán bình quân 2050 USD/tấn.

(dựa vào số liệu của 10 nước nhập khẩu cà phê Việt Nam hàng đầu vụ 2005-2006 (Theo C/O)

Trong nội khối các nước ASEAN, Philippines nhập khẩu cà phê Việt Nam với số lượng 16.547 tấn; Malaysia 12.367 tấn; Singapore 5.690 tấn và Indonesia 806 tấn. Với thị trường Trung Quốc, số lượng nhập khẩu cà phê Việt Nam vẫn duy trì ổn định ở mức 12.865 tấn. .

Với thị trường Nga và Đông Âu, Nga nhập của Việt Nam 14.175 tấn; Romania 7567 tấn; Bulgaria 5343 tấn; Slovenya 3417 tấn; Estonia 3.199 tấn; Cộng hoà Czech 3064 tấn; Gruzia 1875 tấn; Hungary 1787 tấn; Yugoslavia 1684,6 tấn; Slovakia 326,4 tấn; Ucraina 153 tấn; Latvia 216,5 tấn; Armenia 38, 4 tấn. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho ngành cà phê xuất khẩu Việt Nam.

Năm 2007, sau khi sụt giảm vào cuối tháng 8, trong tháng 9 giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam phục hồi mạnh. Giá trung bình tháng 9 ở mức 1738 USD/tấn, tăng 50 USD/tấn so với giá mức trung bình 1679 USD của tháng 8. Giá xuất khẩu bình quân chung 9 tháng đầu năm đạt 1.507 USD/tấn, tăng 29% cùng kỳ năm trước (khoảng 340 USD/tấn). Hiện nay cà phê xuất khẩu của Việt Nam được định giá dựa theo biến động giá trên thị trường robusta kỳ hạn tại Luân Đôn. Giá cà phê tại Luân Đôn tăng cao kéo giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam tăng theo. Nguyên nhân tăng giá do lo ngại về tình trạng thiếu hụt cung robusta trong ngắn hạn trước vụ thu hoạch mới của Việt Nam. Thu hoạch cà phê ở nước ta, nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới bắt đầu vào cuối tháng 10 trong khi những dự báo cho thấy La Nina đang hình thành ở khu vực Cao nguyên Trung bộ kèm theo mưa và lũ, có thể sẽ gây khó khăn cho việc phơi khô và ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cà phê. Nguy cơ trời sẽ mưa vào giai đoạn cuối cuả vụ thu hoạch kèm theo dự báo về việc thâm hụt cà phê trên thế giới khiến giới kinh doanh trên thị trường Luân Đôn đẩy giá cà phê robusta lên cao. Thêm vào đó đà tăng giá mạnh trên thị trường arabica kỳ hạn tại Niu Yóoc trong bối cảnh mùa vụ cà phê của Braxin có thể bị thiệt hại do hạn hán kéo dài đã tác động đáng kể lên giá cà phê robusta của Việt Nam. Tại thị trường Đắk Lắk, giá cà phê nhân xô trong tháng 9 tăng so với tháng 8 nhưng biến động thất thường. Vào những ngày đầu tháng, giá cà phê đứng ở mức 25.850 đồng/kg (4/9/07) và tăng ở giữa tháng, đạt 26.900 đồng/kg, tăng 1.000 đồng/kg so với ngày đầu tháng nhưng lại có xu hướng giảm nhẹ vào cuối tháng. Tính chung giá bình quân tháng 9 đạt mức 26.691 đồng/kg, tăng 304đồng/kg so với tháng trước và tăng 4.844 đồng/kg so với cùng kỳ năm trước.Ư ơc t ính xuất khẩu cà phê tháng 9/2007 đạt khoảng 40 ngàn tấn, kim ngạch đạt 67 triệu USD, so cùng kỳ năm trước lượng giảm khoảng 17%, kim ngạch tăng gần 9%. Xuất khẩu cà phê 9 tháng đầu năm 2007 thuận lợi về giá cả và thị trường, giá cà phê tuy có biến động ngắn hạn nhưng ở xu hướng chung là tăng về dài hạn. Năm 2007 là năm đầu tiên kim ngạch XK cà phê vượt kim ngạch XK gạo với mức 13%. Ước lượng cà phê XK 9 tháng đạt 975 ngàn tấn, kim ngạch 1,47 tỉ USD. So cùng kỳ năm trước lượng tăng 45%, kim ngạch tăng 87%.

 

Tuy đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu cao nhưng giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam vẫn thấp hơn các nước sản xuất cà phê khác khoảng 50-70 USD/tấn. Theo phó chủ tịch Hiệp hội Cà phê ca cao Việt Nam Đoàn Triệu Nhạn: ‘’nguyên nhân là do Việt Nam mua bán cà phê không theo qui trình, tiêu chuẩn của thị trường thế giới. Nông dân trồng cà phê vẫn chưa bỏ thói quen thu hái cà phê cả hạt xanh lẫn hạt chín, phơi và chế biến thủ công khiến chất lượng giảm. Cả người bán và người mua vẫn có thói quen sử dụng tiêu chuẩn cũ chỉ đánh giá chất lượng cà phê dựa trên ba tiêu chí là hàm lượng ẩm, hạt đen vỡ và tạp chất. Trong khi đó, tiêu chuẩn mới đánh giá theo số lỗi của hạt cà phê. Việc chưa áp dụng tiêu chuẩn mới phù hợp với quốc tế phản ánh những yếu kém trong quản lý chất lượng hàng hóa xuất khẩu của ngành cà phê Việt Nam. Trước sự bất cập này, Nhà nước cần đưa mặt hàng cà phê vào danh mục bắt buộc phải kiểm tra chất l ư ợng s ản ph ẩm tr ư ớc khi th ông qua.

Đến năm 2008,từ những tháng đầu năm giá cà phê đã có những biến động mạnh.Giá cà phê kỳ hạn gần nhất đã tăng lên đến 157,2 Uscent/lb (3.462,48 USD/tấn) – mức cao kỷ lục trong 10 năm qua, tăng 16,5% so với trung tuần tháng trước và tăng 37,89% so với cùng kỳ năm ngoái. Cùng với những diễn biến trên thị trường thế giới, giá cà phê robusta xuất khẩu của nước ta tiếp tục tăng rất mạnh. Cụ thể, giá cà phê robusta loại II của nước ta đã vượt ngưỡng 2.000 USD/tấn, lên mức 2.130 – 2.150 USD/tấn, tăng 21,13% so với đầu năm 2008 và tăng 19,44% so với cùng kỳ năm ngoái.

Bên cạnh đó, sau khi vượt ngưỡng 30,000 đồng/kg vào trung tuần tháng 01/2008, trung tuần tháng 02/2008, giá thu mua cà phê nhân trong nước tiếp tục tăng từ 1.500 – 2.000 đồng/kg so với cuối tháng 01/2008, lên mức 33.000 – 33.200 đồng/kg, và tăng gần 50% so với cùng kỳ năm ngoái.Theo số liệu thống kê, trong 20 ngày đầu tháng 01/2008, cả nước đã xuất khẩu 108 nghìn tấn cà phê với trị giá 193,93 triệu USD, giảm 32,27% về lượng và giảm 15,45% về trị giá so với cùng kỳ năm 2007.Những diễn biến mới về giá đã làm thị trường cà phê trong nước trở nên sôi động hơn bao giờ hết.Ngày 20/02/2008 Giá cà phê trong nước đã leo lên mức cao mới: 32.000-35.000 đồng/kg. Nhiều chuyên gia dự báo, do sản lượng cà phê Việt Nam sụt giảm nên mức giá này có thể đạt mức 40.000 đồng/kg. Chính những biến động quá nhanh và bất ngờ dẫn đến doanh nghiệp găm hàng, chờ giá lên cao hơn mới bán.Còn nông dân thì thấp thỏm không biết nên vui hay là lo lắng.Nguyên nhân khiến giá cà phê leo thang ngay trong những ngày đầu năm là do sản lượng cà phê Việt Nam – nước sản xuất cà phê robusta hàng đầu thế giới, niên vụ 2007-2008 hao hụt 20-30% so với dự tính. Hạn hán đầu vụ cộng với mưa lũ trong tháng 8/2007 đã làm nhiều vườn càphê ở thủ phủ Đắk Lắk bị hư hại, chất lượng kém, năng suất giảm từ 30-70%. Việc thiếu hụt cà phê do sản lượng giảm sút mạnh trong niên vụ này đã đẩy giá thị trường cà phê thế giới lên rất cao. Đã vậy, thấy giá cao, nhiều hộ kinh doanh cà phê “găm” hàng không bán. Theo đà, giá cà phê trong nước cũng tăng lên mức kỷ lục.

Những tháng cuối năm 2007 đầu 2008 ở Tây Nguyên, giá mua vào cà phê rubusta nhân có lúc đạt mức 42.000 đồng/kg, đạt mức giá cao nhất trong 14 năm qua. Trong khi đó, giá cà phê robusta trên sàn London vào ngày 3/3 ở mức 2.757 USD/tấn, tăng 34 USD/tấn so với cuối tuần trước; giá cà phê robusta giao tại cảng Tp.HCM đạt mức 2.635 USD/tấn, tăng 30 USD/tấn so với cuối tuần trước đó.Giá cà phê những ngày này được ví như giá cổ phiếu một thời, tăng dần lên từng ngày.Chỉ sau một thời gian ngắn giá cà phê thế giới bất ngờ giảm tình trạng đó kéo dài đến tận bây giờ…vượt ngoài dự đoán của doanh nghiệp và những nhà đầu cơ. Bất ngờ sau một đêm, giá cà phê giao dịch tại London đã giảm 146 USD/tấn từ 2.774 USD/tấn xuống còn 2.628 USD/tấn, từ đó kéo theo giá xuất khẩu tại cảng Tp.HCM cũng đã giảm mạnh gần 190 USD/tấn từ 2.635 USD/tấn xuống còn 2.445 USD/tấn. Theo đà giảm, giá cà phê trên địa bàn Gia Lai đã giảm mạnh chỉ trong vòng 4 ngày, từ mức cao kỷ lục 42.000 đồng/kg trong ngày 6/3 về mức 34.000 đồng/kg trong ngày hôm qua, khiến các chủ cơ sở kinh doanh cà phê dao động, lúng túng. Lo lắng, nhiều người dân đã ồ ạt bán ra làm cho thị trường càng trở nên khó dự đoán và đặc biệt, trong thời gian này, hầu hết các ngân hàng thương mại đang thắt chặt họat động cho vay dẫn đến tình trạng thiếu tiền mặt trong thu mua cà phê.Nhiều người dân ở thành phố Buôn Ma Thuột khi thấy giá cà phê chững lại ở mức cao và bắt đầu có dấu hiệu giảm vội vàng bán ra với mức giá 39.500 đồng/kg nhưng nhiều đại lý không mua với lý do không có tiền mặt. Có người không kịp bán họ đã mất trắng 2,5 triệu đồng/tấn.Những tháng đầu năm 2008 càng giúp ta thấy rõ sự tác động của hội nhập kinh tế đến xuất khẩu cà phê của Việt Nam.Chúng ta cần có những biện pháp nâng cao chất lượng cà phê,tìm hiểu thị trường để việc xuất khẩu cà phê trong tương lai không còn bị chênh vênh và chịu ảnh hưởng quá nhìu của sự biến động của thị trương quốc tế như hiện nay.Góp phần bình ổn giá thị trường,giúp cho nông dân yên tâm chăm chút từng gốc cây cà phê để cho được năng xuất chất lượng cao nhất.Với dự báo kim ngạch xuất khẩu cà phê của ta trong năm 2008 là 1800 triệu đô là cũng có thể nói cũng là một con số khả quan so với những biến động bất ngờ trong những tháng đầu năm.

 

Share This
COMMENTS
Comments are closed