Vị trí, vai trò của ngành cà phê trong nền kinh tế

Trên thế giới hiện có khoảng 75 nước trồng cà phê và chủ yếu tập trung ở Nam Mỹ, Châu Phi và Châu Á. Khoảng 10 triệu lao động tham gia sản xuất cà phê. Tổng diện tích cà phê thế giới khoảng 10 triệu ha, sản lượng hàng năm trên dưới 6 triệu tấn, đem lại thu nhập cho khoảng 100 triệu người. Nếu kể cả những người trồng và người liên quan đến tiêu thụ cà phê thì trên toàn thế giới có khoảng 20-25 triệu người sống nhờ cây cà phê. Tại nhiều nước, cà phê chiếm hơn 80% tổng kim ngạch xuất khẩu. Đối với trên 17 quốc gia trồng cà phê chính, mặt hàng này đóng góp 25% kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

Các nươc xuất khẩu cà phê chính hiện nay là Brazil, Colombia, Việt Nam, Indonesia và Guatemala. Trong khi đó, các nước phát triển như Mỹ, các nước EU, Nhật Bản và mộ số nước công nghiệp mới như Singaporo và Malaysia là những nước nhập khẩu chủ yếu.

Những năm trước thập kỷ 60, thị trường cà phê thế giới là thị trường thường xuyên biến động do sự bất ổn cả phía cung và phía cầu. Sau thập kỷ 60, khi nền kinh tế các nước phát triển dần đi vào ổn định. Lượng xuất khẩu cà phê thế giới phụ thuộc vào một số nước có thị phần lớn như Brazil và gần đây là Việt Nam. Bên canh đó, những cố gắng hợp tác của các nước xuất khẩu cà phê nhằm điều chỉnh lượng cung ứng không đạt kết quả mong muốn đã làm giá cà phê ghế giới liên tục dao động, bất lợi cho các nước này. Năm 1994 và 1995, khi sản lượng cà phê Brazil giảm đột ngột do tác động sương muối đã làm giá cà phê thế giới tăng mạnh. Những nước xuất khẩu cà phê khác được lợi, kim ngạnh xuất khẩu tăng. Tại Việt Nam, do lợi nhuận từ trồng cà phê cao, người dân đã tăng diện tích trồng bằng nhiều cách khác nhau như phá bỏ các loại cây trồng khác, phá rừng v.v… để trồng cà phê. Trong nửa cuối thập kỷ 90, diện tích cà phê của Việt Nam tăng trung bình 23,9%/năm, sản lượng tăng trên 20%/năm; và năm 1994,1995,1996 sản lượng tăng nhanh nhất với mức độ tăng lần lượt là 48,5%, 45,8% và 33%. Cà phê trở thành mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng thứ hai (sau gạo) của Việt Nam, năm 2006 kim ngạch xuất khẩu lần đầu vựơt 1 tỷ USD, năm 2007 kim ngạch đã vượt mức 1,5 tỷ USD.

Nghề trồng cà phê ở Việt Nam là một nguồn thu nhập cho một nhóm đông dân cư ở nông thôn, trung du và miền núi. Cà phê đã tạo việc làm cho hơn 600.000 nông dân và số người có cuộc sống liên quan tới cà phê trên 1 triệu người.

Năm 2007 là năm đặc biệt thành công đối với ngành cà phê của nước ta với lượng cà phê xuất khẩu đạt 1.209 nghìn tấn và kim ngạch đạt 1,88 tỷ USD, tăng 23,32% về lượng và tăng 54,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2006 (mức kỷ lục về lượng và trị giá). Tuy nhiên, sản xuất cà phê của Việt Nam vẫn ở trong quy mô nhỏ lẻ, các doanh nghiệp chưa chú trọng đến kỹ thuật mà chỉ quan tâm tới khâu chế biến và tiêu thụ. Hiện nay, nước ta có gần 490 nghìn hécta đất trồng cà phê (trong đó Tây Nguyên chiếm tới 90% diện tích đất trồng với 439 nghìn hécta) với năng suất gần 1,7 tấn/ha, sản lượng bình quân mỗi năm gần 1 triệu tấn. Sản phẩm chủ yếu là cà phê nhân xuất khẩu, cà phê rang xay và cà phê hoà tan. Cà phê xuất khẩu chiếm tới 90% cà phê của cả của nước. Với lợi thế về khí hậu, chất lượng giống và chi phí vận chuyển, song có đến 95% sản lượng cà phê là sản xuất ở quy mô nhỏ, trên 80% số nông trại có diện tích dưới 2 hécta, hộ lớn nhất cũng chỉ đạt 5 hécta và hộ thấp nhất chỉ là 2 -3 sào/hộ, đó là nguyên nhân lớn nhất dẫn đến tình trang chất lượng cà phê không đồng đều khiến cho giá xuất khẩu cà phê nước ta thấp hơn 10% so với giá các sản phẩm cùng loại trên thế giới.

Sản xuất cà phê của Việt Nam hiện nay với hai chủng loại cà phê Robusta (cà phê vối) chiếm tới 90% sản lương (65% diện tích) cà phê của cả nước và cà phê Arabica (cà phê chè), năng suất thấp hơn nhưng chất lượng thơm ngon. Cà phê của Việt Nam được trồng chủ yếu ở các tỉnh Tây Nguyên (chiêm tới 90% diện tích trồng cà phê của cả nước) và một số ít được trồng ở các tỉnh phía Bắc.

Share This
COMMENTS
Comments are closed